TÂMLINH NGOẠICẢM VÀ TRÍ TUỆ GT
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

TÂM QUANG VÀ KHÍ CÔNG cùng PHƯƠNG PHÁP NHÌN THẤY HÀO QUANG CON NGƯỜI

Go down

TÂM  QUANG VÀ KHÍ CÔNG  cùng PHƯƠNG PHÁP NHÌN THẤY HÀO QUANG CON NGƯỜI Empty TÂM QUANG VÀ KHÍ CÔNG cùng PHƯƠNG PHÁP NHÌN THẤY HÀO QUANG CON NGƯỜI

Bài gửi  Admin Tue Jun 12, 2012 2:37 pm




TÂM QUANG VÀ KHÍ CÔNG cùng PHƯƠNG PHÁP NHÌN THẤY HÀO QUANG CON NGƯỜI

I.- Ý NGHĨA VẬT LÝ VỀ MÀU SẮC CỦA ÁNH SÁNG :

Vật lý học ngày nay có thể dùng tam lăng kính tức thủy tinh hình khối tam giác , đem ánh sáng thường khúc xạ thành ra ánh sáng bảy màu :đỏ ,cam, vàng, xanh lá cây , xanh dương , tím ; giống như màu của cầu vòng sau ngày mưa tạnh ; do đó , màu trắng là màu được hợp thành của bảy màu trên do hiệu ứng khúc xạ của ánh sáng mà thị giác con người trông thấy được .
Ánh sáng tại sao có bảy màu , nguyên do ánh sáng có đặc tính của hạt và sóng , nhưng chúng có tần số rung động , năng lượng và công dụng khác nhau , vì thế màu sắc của từng loại ánh sáng cũng khác nhau do do sự biểu hiện của cường độ mạnh yếu , tần số rung động từ thấp lên cao và sức xuyên thấu từ yếu đến mạnh mà tạo ra những loại ánh sáng có màu sắc khác nhau vậy .
Tiến xa hơn nửa , ngoài màu đỏ ta còn tạo có hồng ngoại tuyến , ngoài màu tím ta còn có tử ngoại tuyến ; mức độ xuyên thấu của tử ngoại tuyến rất mạnh , dùng để tiêu diệt vi khuẩn , đương nhiên nó có thể làm cháy da ; sự bức xạ của hồng ngoại tuyến rất rỏ ràng , hầu như tất cả thực thể vật chất đều có bức xạ của hồng ngoại tuyến , người ta có thể chụp ánh sáng bức xạ nầy bằng kỷ thuật chụp ảnh của Kilarian ;ngoài ra người ta còn đi sâu vào nghiên cứu những loại ánh sáng mà con người không thấy được .
Trong thế giới tự nhiên , tất cả sinh mệnh đều có sự liên quan mật thiết với ánh sáng ; ánh sáng là một loại vật chất tinh vi , nó là dẩn thể của năng lượng và thông tin ; nếu không có ánh sáng thì thực vật và động vật đều bị diệt vong ; sự hấp thu vật chất của sinh mạng , đều dựa vào ánh sáng để tồn tại , sự cấu trúc của sanh mạng đều cần sự thông tin và trao đổi với ánh sáng ; nếu sự thông tin và nguồn năng lượng của ánh sáng không đầy đủ , sẻ làm cho sinh mạng thể nầy sinh ra nhiều bệnh tật và ốm yếu .
Ánh sáng không những mang lại sinh khí và màu sắc cho vạn vật , đồng thời nó cũng tạo ra nhiều sự tổn hại cho vạn vật ; bởi vì tất cả những sinh vật trong những khoảng thời gian khác nhau thì cần những loại năng lượng và các loại thông tin của ánh sáng khác nhau ; nếu những loại năng lượng nầy quá mạnh hoặc quá yếu sẻ làm tổn hại đến sanh mạng của sinh vật ; thí dụ như hồng ngoại tuyến , nếu có quá nhiều sẻ làm cháy tổn hại đến sanh mạng , như những tầng khí quyển địa cầu bị hư hại , thì không cản được sức bức xạ hồng ngoại tuyến của mặt trời , nên làm cho con người tại nơi đó bị đốt nóng và khó chịu .

II.- Ý NGHĨA CỦA ÁNH SÁNG TRONG KHÍ CÔNG HỌC :

Trong khí công học , ánh sáng là biểu tượng của một loại khí ; năm màu trắng , vàng , đỏ , đen , xanh có sự tương đồng với các loại khí trong ngủ tạng con người ; bởi vì sự trực thuộc năm màu với ngủ hành kim , mộc , thủy , hỏa , thổ cũng tương đồng với sự trực thuộc ngũ hành của ngũ tạng , tâm , can , tỳ , phế , thận .
Như vậy , màu sắc của ánh sáng có sự tương quan với các loại khí trong cơ thể con người .
Thuật Du Già Yoga của Ấn Độ cho rằng bộ đầu của con người cần được hấp thu ánh sáng trắng , bởi vì tần số rung động mang thông tin của ánh sáng trắng có thể ôn dưởng nảo bộ , khai phát trí huệ , tiêu trừ ô uế trọng trược , làm thân tâm của con người được an lạc , hầu đạt đến cảnh thậm thâm vi diệu của pháp giới .
Mổi loại thông tin của ánh sáng đều có nhiều phương thức biểu hiện khác nhau ; tức mổi loại ánh sáng đều có liên hệ với mổi loại âm thanh tương ứng , thí dụ như chú ngử OM của Phật Giáo , khi đọc chú ngử OM đồng thời hành giả tưởng tượng đưa ánh sáng trắng vào bộ đầu ; khí trắng là một loại nguyên khí , nó là tổng hợp của bảy loại khí khác ; đọc chử A đưa ánh sáng đỏ vào bộ phận cổ họng , làm mạnh thanh âm và phát sanh công năng đặc dị ; đọc chử HUM đưa ánh sáng xanh lá cây vào tim , làm cho tâm được an định .
Môn Yoga Hỏa Xà - Kundalini Yoga của Ấn Độ cho rằng : khí căn bản trong thân con người có năm loại : - Căn Mạng Khí – Prana – màu vàng ở ngực , chủ quản hô hấp ; Hạ HànhKhí – Udana – màu Tím ở cổ chủ quản sự nuốt và phát âm ; Bình Hành Khí – Smana – màu xanh dương ở bụng chủ quản tiêu hóa ; Hạ Hành Khí – Apana – màu cam ở hậu môn chủ quản bài tiết ; Biên hành Khí – Vyana – màu đỏ , chủ quản toàn thân , hệ thống tuần hoàn của máu , sự co thắt của cơ nhục ; Phái áo vàng Mật Tông Tây Tạng , lại cho rằng khí màu vàng ở bụng , khí đơn điền màu xanh dương ; ánh sáng có màu sáng là chính khí , ngược lại là yếu và lu mờ là tà khí , khí có màu vàng đỏ là bệnh khí ; khí có màu đen là do bệnh nặng của ác nghiệp , ma chướng gây ra .....
Do đó , màu sắc của ánh sáng trong khí công học có cho rằng : trong khi tập khí công cần chọn dùng màu sắc thích hợp với bộ vị trong thân thân , thì mới giúp cho cơ thể khõe mạnh , trí tuệ và thông đạt ; ngoài ra hành giả cần chú ý , mổi bộ vị của cơ thể thường phát ra ánh sáng màu gì , để có thể sớm phát hiện bệnh trạng mà tìm phương pháp trị liệu cho đúng lúc .

PHƯƠNG PHÁP NHÌN ÁNH SÁNG BÊN TRONG .
KHÁN NỘI QUANG PHÁP

KHÁI LUẬN VỀ TÍNH QUANG CỦA NHÂN THỂ :

Khi hành giả ngồi thiền định đến một trình độ nào đó , thì trong nội tâm ở trước mắt tự nhiên xuất hiện một loại ánh sáng , được gọi là Linh Quang , đó là Bản Tính Linh Quang . Vì nhờ ngồi thiền định mà thấy được bản lai diện mục của mình , gọi là minh tâm kiến tánh ; trong thiền định quán chiếu , gọi là hồi quang phản chiếu , nên thấy được ánh sáng . Cổ nhân nói : nhắm mắt an định tâm nhìn giửa hai chân mày , thấy được ánh sáng là công quả .
Nho giáo , Phật giáo và Đạo giáo đều thừa nhận sự tồn tại khách quan của Tính Quang là công năng vô thượng ; nên Nho Gia gọi Tính Quang là Nhân ; Phật gia gọi là Mâu Ni Châu , Ngọc Xá Lợi , hoặc Viên Minh tròn đầy ; Đạo gia gọi là Đơn hay Linh Quang ; Kinh Dịch gọi nó là Vô Cực .
Tất cả đều lấy hình vòng tròn để làm ký hiệu khi nói đến loại ánh sáng tính quang nội tâm nầy , và cho rằng vòng tròn nầy là sự ngưng kết của khí tiên thiên ; cổ nhân gọi linh quang nầy là Bất không , vì khi hành giả quán Không mà thấy ánh sáng là chánh đạo (Quán Không Bất Không Vi Chánh Đạo ) ; còn quán không mà không thấy gì hết thì chưa phải là đạo ( Quán Không Nhi Không Thị Ngụy Đạo ) ; Bất Không là trong hư không thấy ánh sáng , trong hư không không có ánh sáng gọi là Ngoan Không ; Đạo gia cho rằng khi hành giả thấy được ánh sáng nầy thì con đường luyện Kim Đan sẻ có kết quả tốt ; còn hành giả nào ngồi thiền định lâu ngày mà không trông thấy được ánh sáng nội tâm , thì do chưa biết phương pháp , hỏa hầu chưa đầy đủ hay công lực chưa đến , tập luyện chưa được tinh tấn , nên được gọi tình trạng nầy là Ngoan Không .
Như vậy loại ánh sáng chiếu hiện trong tâm nhản của hành giả thường có hình dạng như thế nào ?
Trong quá khứ, trong kinh điển của các tôn giáo đều không nói rỏ về các loại ánh sáng nội tâm nầy , mà đều dùng ngôn ngử ẩn dụ để diển tả nó , vì đó là bí mật của sự tu luyện tâm linh .
Thật ra , thì ánh sáng tính quang nầy có những sự biểu hiện khác nhau tùy theo trình độ , giai đoạn tu tập và công lực của hành giả , đại thể ánh sáng tính quang nầy gồm có hai loại gọi là Tuệ Quang và Thiềm Quang . Khi hành giả tu tập thiền định ở trình độ sơ và trung cấp , mà thấy được các loại ánh sáng , thì các loại ánh sáng nầy đều thuộc về ánh sáng của Tuệ Quang ; còn những hành giả tu tập đến trình độ thượng thừa thì sẻ thấy được những loại ánh sáng đặc biệt , thì những loại ánh sáng đặc biệt nầy gọi là ánh sáng Thiềm Quang .
Thí dụ , như sự tu tập của Đạo Gia , trong giai đoạn luyện Tinh hóa Khí , luyện Khí hóa Thần thì thường thấy ánh sáng Tuệ Quang ; do sự nhìn thấy cường độ ánh sáng mạnh yếu , tròn đầy hay chưa tròn đầy , màu sắc của nó là màu gì , thì cũng có thể đoán biết được trình độ , công lực của hành giả đả tu luyện đến đâu và chứng minh được sự yếu kém về Tinh , Khí Thần của hành giả chưa được sung túc , đầy đủ , như vậy sự luyện Kim Đan hay Xá Lợi Tử chưa hoàn thành .
Hành giả khi tu tập thiền định , ở giai đoạn đầu trông thấy ánh sáng Tuệ Quang trong nội tâm , là những điểm ánh sáng mờ ảo di động không ngừng , hay những vòng tròn sáng có ngoại biên sáng mà trong lại tối hoặc vòng tròn không rỏ hay không được tròn , nhưng khi hành giả dùng ý thức để nhìn thì nó lại biến mất đi , thì đó đều là sự biểu hiện của Tinh Khí bất túc , chưa đầy đủ sung mản của hành giả , nên ánh sáng Tuệ Quang nầy có những hiện tượng như trên .
Sau một thời gian dài hành giả tu tập tinh tấn , Tinh Khí đầy đủ , công lực cao thì ánh sáng Tuệ Quang sẻ biến thành ánh sáng màu đỏ gọi là Huyết Huyền Quang , nếu ánh sáng màu trắng thì gọi là Chánh Huyền Quang , các loại ánh sáng nầy sáng tỏ tròn đầy như mặt trăng rằm , hiện ra cố định không lay động ngay ở trước mắt , thì đây mới thật là ánh sáng tinh khiết chân thật của Tuệ Quang vậy .
Còn Thiềm Quang là một loại ánh sáng màu vàng kim , manh nha thoát ra từ ánh sáng trắng của tuệ quang , là hạt mầm của Kim Đan ; Thiềm Quang có màu vàng kim và hình tròn sáng tỏ .
Khi Tinh không đầy đủ thì không thể làm phát sanh ra Tuệ Quang , Khi Xá Lợi Tử không đầy đủ , thì không thể làm phát sanh ra Thiềm Quang .Tuệ Quang như ánh sáng mặt trăng , Thiềm Quang như Kim Quang .
Khi Tuệ Quang được luyện đầy đủ hỏa hầu sẻ hóa thành Thiềm Quang ; Thiềm Quang hình tròn có màu vàng kim chiếu sáng , đến lúc nầy đả xem như hành giả đả luyện thành Hạt Xá Lợi , tức luyện thành Kim Đan vậy .
Sự hình thành của Tuệ Quang và Thiêm Quang , là pháp thân của hành giả , là ánh sáng tinh hoa của sự kết hợp Tánh -Mệnh , Thần- Khí , Tinh – Khí – Thần .
Đa số những khả năng ngoại cảm đều thông qua Tuệ Quang để làm khai phát tiềm năng nầy .

Ánh sáng Tính Quang của nhân thể được chia ra làm hai loại Ngoại Quang và Nội Quang .
Cách tập xem hào quang gồm có hai loại : Nhắm mắt và mở mắt .
1.- Phương pháp nhắm mắt :
Đây là giai đoạn sơ cấp , hành giả ngồi tỉnh tọa , mắt nhắm lại , sau đó lấy tâm nhìn vào màn mắt bên trong hay nhìn ở giửa hai chân mày , có hình một vạch ngắn nằm ngang , một lúc sau sẻ thấy hình nầy hiện ra ; nếu nhìn không thấy , thì đầu tiên khi nhìn thấy một điểm sáng hiện ra , thì lấy ý vẻ kéo điểm sáng nầy dài ra thành một vạch ngắn , nằm ngang ; hành giả cứ thế mà tập cho đến khi nào khi nhắm mắt lại mà nhìn thấy vạch ngắn nầy một cách tùy ý và rỏ ràng là đả thành công bước đầu .
Kế đến hành giả theo phương pháp trên mà tập nhìn tuần tự các hình tam giác , vuông , tròn , ngôi sao năm góc .....và dần dần đi đến các hình thể phức tạp hơn .

2.- Phương pháp mở mắt :
Phương pháp nầy được luyện tập , sau khi hành giả đả tập thành công phương pháp nhắm mắt , hành giả sau khi tập phương pháp nầy thì khi mở mắt vẩn có thể thấy được ánh sáng nội quang hiện ra trong không gian ở ngay trước mắt mình , đồng thời những người chung quanh cũng thấy được ánh sáng nầy .
Vào lúc trời vừa tối hay lúc mặt trời vừa mọc lên , hành giả ngồi trong phòng hơi tối , mở mắt ra , mặt hướng nhìn vào không gian trước mắt , trong ý tưởng tượng một vạch ngắn nằm ngang hiện ra ngay trước mắt , hành giả tập như thế trong khoảng 15 đến 20 phút , xong nghỉ giải lao vài phút tập tiếp tục , tập như thế cho đến lúc , hành giả mở mắt ra mà vẩn thấy được vạch ngắn nầy hiện ra rỏ ràng trong không gian ngay trước mắt , sau đó hành giả tập đến những hình phức tạp hơn ; kế đến , hành giả chuẩn bị một tấm hình đơn giản có vài màu sắc phối hợp , treo trên bức tường ngay vừa tầm mắt nhìn của mình , hay để trên bàn trước mắt mặt của mình cũng được ; xong mở mắt định thần nhìn vào tấm hình nầy một lúc , lấy thần mà ghi nhận những chi tiết và màu sắc trong tấm hình nầy , kế đến quay mặt về hướng khác , để tưởng tượng thấy hậu ảnh vẩn còn hiện ra ngay trước mắt mình , nếu thấy hình hiện ra mờ hay sắp biến mất , thì hành giả ngồi quay mặt lại tấm hình mà nhìn tiếp tục và tập như cách trên ; tập cho đến khi nào , không cần treo hình trước mắt , hành giả vẩn có thể tùy ý cho hình hiện ra ngay trước mắt của mình một cách rỏ ràng và sáng tỏ , sau đó mới cho hình nầy hiện ra
và những người chung quanh đều nhìn thấy những hình nầy , thì xem như đả thành công . Những người có bệnh hay huyết áp cao không nên tập phương pháp nầy , vì khi tập phương pháp nầy tiêu hao năng lượng thân thể rất nhiều .

PHƯƠNG PHÁP NHÌN THẤY HÀO QUANG CON NGƯỜI

I.- HÀO QUANG CON NGƯỜI :

Hào quang của con người là một vòng khí quang điện từ sinh học ( Bio-electromagnetic engergy ) , được tỏa ra chung quanh thân thể của con người , nó có hình quả trứng và được một nhà khoa học gia người Nga tên là Semyon Kirlian phát hiện , chụp được và ghi nhận vòng hào quang nầy một cách dể dàng lên phim ảnh và đặt tên cho nó là Bioplasmic energy . Huyền Bí Học Tây Phương gọi vòng hào quang nầy là thể phách – Etheric double , nó có thể được pha trộn và là chất dẩn của các thể vía , thể trí và các thể cao hơn của con người ,tùy theo mục đích xử dụng của nhà Huyền Bí Gia .
Những màu sắc và cường độ sáng tối của vòng hào quang nầy có thể cho ta biết được tình trạng sức khỏe , bệnh tật , tâm tư , tình cảm và nguyện vọng của mổi người ; những tư tưởng và ký ức của con người cũng được ghi giử trong vòng hào quang nầy .
Hào quang của con người , bên Huyền Học Đông Phương còn gọi là Ánh Sáng hay Khí – Chi ; Ánh Sáng nầy gồm có Ánh Sáng bên ngoài cơ thể và Ánh Sáng bên trong cơ thể hay gọi là Ngoại Khí và Nội Khí ; Ánh Sáng bên trong hình thành tùy theo trình độ tu tập mà có những tên gọi khác nhau như : Tuệ Quang – Bản Tính Linh Quang – Đàm Quang – Xá Lợi Tử – Mâu Ni Châu ......Những Thầy Bói hay Thầy Thuốc Đông y có trình độ tu tập cao , có thể nhìn thấy màu sắc và cường độ cũng như những thông tin cất giử trong vòng hào quang nầy mà chẩn đoán hay tiên liệu những trạng huống liên quan đến tương lai vận mạng hay tình trạng sức khoẽ bệnh tật của con người , mà cho toa thuốc trị bệnh hay đề nghị những cách hóa giải những tai ách có thể xảy đến cho con người ; nên cái hay của Đông Phương là Phòng Bệnh Hơn Trị Bệnh , Trị Bệnh Từ Gốc Hơn Trị Bệnh Từ Ngọn , vì khi nhìn thấy hào quang vùng nào của cơ thể đổi màu ra đen kệch hay vòng hào quang bị yếu hay rách thủng thì , mau cho thuốc hay tập luyện cơ thể để tăng cường sinh lực trở lại tốt , chớ không đợi cho bệnh ảnh hưởng đến cơ thể xác thịt mà hiển hiện ra ngoài , mắt thường có thể thấy được , rồi mới chẩn trị theo Tây Y , là đả quá trể rồi vậy .

Hai nhận xét sai lầm khi nhìn hào quang con người :

1.- Khi ta định thần và thư thả nhìn lên bầu trời xanh trong ngày quang đảng , thì ta thấy nhiềm đốm sáng lấp lánh trên nền trời , có nhiều nhà ngoại cảm cho , đó là sinh lực khí prana đang bay trên bầu trời ; nhưng với người bình thường nhìn thấy nó , thì thật ra không phải đó là sinh lực khí prana , mà thật ra đó là những phản xạ quang học của những phân tử nước phân tán di động trên vỏng mạc mắt hay những mảnh vụn của những tế bào chết li ti , đang di động đóng ở ngoài vỏng mạc, mà tạo ra ảo giác nầy .
2.- Hình ảnh do ảo giác hậu di ảnh của mắt tạo ra ; thí dụ như khi bạn cầm một tờ card giấy màu cam chói – Fluorecent orange , đưa lên ngang mắt và đặt nó ở một khoảng cách như khi đọc sách , dưới một nguồn ánh sáng chói ; bạn hảy nhìn chăm chú vào tờ giấy màu nầy trong năm phút ; sau đó bạn dời tờ giấy màu nầy ra khỏi tầm mắt của bạn , thì tức khắc bạn sẻ nhìn thấy những đốm sáng mờ màu xanh lá cây , hình chử nhật , đang bay chập chờn ttrước mắt bạn như những bóng ma vậy ; thì đây chỉ là do ảnh hưởng hậu di ảnh của quang học ảnh hưởng lên mắt , trong bất cứ lúc nào , khi bạn nhìn chăm chú một vật gì trong một khoảng thời gian lâu vậy . Mật Tông đả lợi dụng những ảnh hưởng hậu di ảnh nầy cho những bài tập quán tưởng linh ảnh Bổn Tôn trong những buổi tu tập quán tưởng của mình ....

Tu tập nhìn hào quang bên ngoài của con người dể dàng hơn là tu tập nhìn hào quang bên trong tâm khảm ; ( vì tư tưởng , ý tưởng của con người dể dao động như mặt nước vượn sóng nên gọi là tâm khảm , và khảm có biểu tượng học trong bát quái là quẻ Khảm , là nét vạch liền nằm giửa ở hai vạch đứt , trên và dưới , tượng trưng cho Nước – Thủy , nên gọi là Tâm Thủy hay Tâm Khảm là vậy ) .

II.- CÁCH NHÌN HÀO QUANG – TRÌNH ĐỘ CĂN BẢN :

1.- Cách nhìn hào quang của hai bàn tay :


Buổi tối , bạn vào trong phòng , tắt đèn và chỉ để ánh sáng đèn đường chiếu sáng qua màn cửa sổ hay chỉ để đèn ngoài hàng lang , ánh sáng mờ chỉ đủ rọi xuyên qua kẹt cửa phòng mà thôi .
Xong , bạn nằm xuống giường , bạn đưa hai bàn tay duổi thẳng các ngón tay ra và đưa ngang trước mắt bạn .Bạn có thể chà sát hai tay vào nhau cho đến nóng trước khi nhìn cũng được hoặc trước đó bạn ngâm hai bàn tay vào chậu nước ấm trước khi thực tập .
Kế đến bạn nhìn thẳng chăm chú định thần vào hai bàn tay nầy xuyên qua đêm tối dưới ánh sáng mờ , bạn sẻ thấy chung quanh các ngón tay sẻ có một lớp ánh sáng mờ đục đang bao quanh nó , hay một lớp hơi trong suốt đang hừng hực tỏa ra ngoài các ngón tay , như bóng nóng của mặt đường bốc lên trong ngày nắng nóng , hay bóng trắng suốt của hơi xăng bốc ra khi bạn đổ xăng cho chiếc xe của bạn vậy .
Tiếp đến bạn đưa hai tay lên bức tường trong phòng và từ từ di động các ngón của hai bàn tay lại gần nhau , khi chúng gần đụng vào nhau , thì bạn sẻ trông thấy một luồng hào quang có màu xanh hay màu đỏ xuất hiện ở các đầu ngón tay ...bạn có thể thí nghiệm với mổi ngón tay của hai bàn tay với cùng cách trên ....
Khi bạn từ từ di động hai bàn tay ra xa thì bạn sẻ thấy những luồng ánh sáng nối liền những ngón của hai bàn tay hiện ra như những luồng điện nẹt ra từ những ngón tay của hai bàn tay vậy .
Tiếp đến , bạn từ từ hít vào đếm chậm chậm hai nhịp , sau đó ngưng thở hai nhịp và tưởng tượng năng lực của bạn gia tăng , thì ánh sáng của các ngón tay sẻ sáng thêm lên trong đêm tối , sau đó bạn thở ra hai nhịp và tiếp tục thí nghiệm như thế với cách thở nhịp nầy ....bạn có thể tăng nhịp thở lên từ 2 đến 6-7 nhịp thở chậm tùy theo trình độ và khả năng hít thở của mổi người , chú ý đừng cưởng ép quá sức sẻ sinh ra chóng mặt , ói mửa không tốt cho sức khõe , sau khi tập xong bạn hít thở bình thường ; bạn chỉ hít thở theo nhịp thở chậm nầy , khi bạn muốn thí nghiệm thay đổi cường độ hào quang của bạn mà thôi .
Bạn có thể tìm nhiều tờ giấy màu A4 khác nhau , lần lược đặt lên bàn và đặt bàn tay bạn lên đó , và bạn nhìn vào nó với cách trên , đương nhiên với ánh sáng có cường độ mạnh hơn và dịu hơn trong phòng vào ban ngày , thì có những màu của những tờ giấy nầy , thích hợp với bạn và bạn có thể dể nhìn thấy hào quang của mình hơn là những màu khác .



2.- Cách nhìn hào quang của cơ thể :

- Đầu tiên , bạn vào phòng riêng ; nếu được hảy , để quần áo trên người ra hay chỉ mặt quần đùi trên người và đứng trước một tấm kiếng có thể trông thấy toàn thân , đàng sau bạn là một bức tường màu trắng hay có dán một tấm giấy to có màu thích hợp để có thể dể dàng nhận ra hào quang của bạn như bạn đả thực tập cho bàn tay và đả chọn được màu thích hợp cho mình . Sau đó , bạn hít ba hơi chậm , dài , sâu , trong lúc hít vào bạn hảy tưởng tượng bạn hít một nguồn ánh sáng trắng chạy vào hai mủi và tỏa sáng ra đều toàn cơ thể bạn , để làm mạnh vòng hào quang của cơ thể ; kế đến , bạn hảy dùng sức mạnh nhắm và nhíu hai mắt lại cho thật mạnh trong vài phút , sau đó thả ra và mở mắt ra và bạn cảm thắy hai mắt bạn dể chịu và thoải mái , bạn làm như thế vài lần ....
Kế đến bạn , thư thả thả mở mắt ra và nhìn chăm chú vào kiếng có phản ảnh cơ thể bạn trong đó ; đầu tiên bạn nhìn trên khoảng không gian vài phân ở trên đầu và ở dưới chân bạn được phản ảnh trong mặt kiếng , bạn để cho mắt bạn được tự nhiên điều chỉnh theo vòng biên của cơ thể , từ đầu đến vai và bạn nhìn toàn bộ ven biên vòng ngoài cơ thể của bạn , sau một hồi lâu , khoảng 5 phút , có thể đầu tiên bạn sẻ nhìn thấy một màu khí hơi trong suốt như nước di động mập mờ hiện ra chung quanh cơ thể bạn , tập một thời gian sau ,bạn có thể thấy nó trở nên màu xám mờ và cuối cùng trông thấy một màu trắng đục bao quanh cơ thể bạn . Nhờ thực tập thường xuyên , khi bạn đả trông thấy được một vòng hào quang có màu trắng đục hiện ra bao quanh cơ thể bạn , thì lúc đó bạn đả thành công trong việc nhìn hào quang bên ngoài cơ thể ở trình độ sơ cấp rồi vậy .

Tiếp đến , bạn tập nhìn hào quang với quần áo trên người và bạn tập nhìn cơ thể bạn trong gương , khi nào bạn thấy hào quang hiện ra rỏ ràng và cố định chung quanh bạn với quần áo bình thường trên người , thì lúc nầy , bạn có thể tập nhìn hào quang cho người khác ; bắt đầu nhìn hào quang của bàn tay người khác giống phương pháp nêu trong mục 1 , sau khi thành công thì tập nhìn phần đầu của người khác , sau đó nhìn từng phần khác cơ thể của người khác , rồi mới đi đến nhìn hào quang toàn thân .



III : TÂM PHÁP CHO CÁCH NHÌN HÀO QUANG :

1.- Hào quang cần nhìn bằng tâm nhản , cặp mắt bên trong , bạn không thể nhìn hào quang bằng cặp mắt của xác thịt ; nếu bạn chỉ dùng riêng cặp mắt xác thịt mà nhìn hào quang thì bạn sẻ thất bại ; Nhiều người không thể trông thấy hào quang vì họ dùng sức mạnh cưởng bức làm căng thẳng cặp mắt thịt của họ để nhìn hào quang ; nên khi muốn nhìn thấy hào quang thì bạn cần phối hợp tâm nhản và nhục nhản , tức cặp mắt ngoại cảm bên trong và cặp mắt thịt bên ngoài , thì lúc đó cặp mắt thịt sẻ nhìn thấy xác thân của bạn và tâm nhản của bạn sẻ nhìn thấy hào quan của bạn , hai hình ảnh nầy sẻ nhập lại làm một và sẻ cho bạn nhìn thấy hào quang toàn vẹn của con người , đồng thời bạn cũng có thể nhìn thấy thân thể của bạn và người khác nửa ...

2.- Đừng cố nhìn hào quang bằng cách trợn trừng căng thẳng mắt thịt mà nhìn nó ; vì khi bạn nhìn như thế , thị giác ngoại cảm của bạn sẻ bị nghẹt và bị cản trở ; vô tình bạn đả kéo thị giác của bạn , đi ra ngoài phạm vi trung tâm cảm ứng ngoại cảm thị giác của bạn ; nên khi nhìn hào quang của một người , thì bạn cần buông thả mắt , nhìn xuyên qua người đó , nhìn khoảng không cách xa gần trên đầu , cổ hay vai của người đó , bạn buông thả mắt tự nhiên , để mắt từ từ tự điểu chỉnh để được rơi vào tầm thị giác của ngoại cảm và làm cho tâm nhản hiển lộ , từ đó bạn có thể nhìn được hào quang một cách tự nhiên ....

Sau khi , thành công và nhờ thực tập thường xuyên , bạn dần dần phát triển tập đến nhìn màu sắc hào quang của con người ; đương nhiên , đây là qua giai đoạn tu tập nhìn hào quang ở lảnh vực của trình độ trung và cao cấp ; gồm có xem màu sắc hào quang , cảm nhận hào quang , đụng chạm , tiếp xúc với hào quang của người và vật hay nơi chốn , bằng hào quang , linh cảm và khí cảm của mình ......tập phóng hào quang , tập đưa các linh thể vào hào quang cho những mục đích bảo vệ , phòng ngự , tấn công hay trị bệnh ........

Những thông tin trên chỉ có tính cách tham khảo và giải trí , các bạn đừng quá tin tưởng vào đó , mọi bất trắc xảy ra , hoàn toàn do người tập chịu hết trách nhiệm .

Bách Việt 1
Huyền Môn
ÁNH SÁNG – T2 – ÚC CHÂU Biên Soạn
http://www.huyenbihoc.com



Admin
Admin

Tổng số bài gửi : 15
Join date : 18/05/2012

https://tamlinhngoaicamvttgt.forumvi.com

Về Đầu Trang Go down

Về Đầu Trang

- Similar topics

 
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết